Hội thảo Khoa học quốc tế: "Chính sách, pháp luật về BĐS du lịch - Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam"

Đăng vào 16/11/2021

07:45  Các khách mời tham dự hội thảo

Hội thảo khoa học quốc tế Chính sách, pháp luật về Bất động sản du lịch - những vấn đề đặt ra cho Việt Nam có sự tham dự của:  
Về phía Bộ Tư pháp có: TS. Phan Chí Hiếu, Uỷ viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp

TS. Phan Thị Hồng Hà, Quyền Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp.

Về phía Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh có: PGS.TS. Lê Văn Chiến,

Viện Lãnh đạo học và Chính sách công, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
PGS.TS. Tào Thị Quyên; Phó Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh.

Phía Hiệp hội Bất động sản Việt Nam có:

Ông Nguyễn Văn Khôi, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

Ông Đoàn Văn Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

Ông Nguyễn Mạnh Hà, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

KTS. Đỗ Viết Chiến, Tổng Thư ký Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

Phía Tập đoàn CEO có:

Ông Đoàn Văn Minh, Tổng Giám đốc Tập đoàn CEO

Phía Đại học Luật Hà Nội có:

TS. Chu Mạnh Hùng, Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Hội đồng trường;

TS. Đoàn Trung Kiên, Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội

PGS. TS Vũ Thị Lan Anh, Phó Hiệu trưởng thường trực trường

TS. Lê Đình Nghị, Phó Hiệu trưởng trường

PGS. TS. Tô Văn Hoà, Phó Hiệu trưởng trường

PGS. TS. Nguyễn Quang Tuyến, Phó Chủ tịch Hội đồng trường
 Hội thảo cũng có sự góp mặt của hơn 30 chuyên gia, nhà khoa học trong lĩnh vực kinh tế, luật học và đặc biệt lĩnh vực kinh doanh bất động sản với đại diện Hiệp hội Bất động sản đến từ Hoa Kỳ, Singapore, Thái Lan, Indonesia và nhiều quốc gia khác và 40 đơn vị báo chí, truyền thông đến đưa tin.

Ông Bùi Tuấn Minh - Phó Tổng giám đốc Deloitte Việt Nam

TS. Lương Hoài Nam - Thành viên Hội đồng tư vấn du lịch Việt Nam 

TS. Lê Xuân Nghĩa - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia

Nhà báo Phạm Nguyễn Toan - Tổng biên tập Tạp chí điện tử Bất động sản Việt Nam

TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và Cạnh tranh

Ông Nguyễn Mạnh Hà - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

PGS. TS. Nguyễn Quang Tuyến - Phó Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Luật Hà Nội

TS. Đoàn Trung Kiên - Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội

Ông Đoàn Văn Bình - Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

Ông Đoàn Văn Minh - Tổng Giám đốc Tập đoàn CEO

Ông Nguyễn Văn Khôi - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Bất động sản Việt Nam

TS. Phan Chí Hiếu - Uỷ viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp

08:10 TS. Phan Chí Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp phát biểu khai mạc và chào mừng Hội thảo quốc tế “Chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch – Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam”.  

Hội thảo quốc tế với chủ đề “Chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch – Những vấn đề đặt ra cho Việt Nam” trong bối cảnh cả nước đang chung sức thực hiện  Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, đồng thời nỗ lực thực hiện mục tiêu kép, vừa phòng chống đại dịch Covid-19, vừa bảo đảm phát triển sản xuất và ổn định các mặt đời sống xã hội.

Tôi vui mừng nhận thấy Hội thảo nhận được sự quan tâm của các Bộ, Ban, Ngành trung ương và địa phương, các đại biểu Quốc hội, đại diện các tổ chức quốc tế, các hiệp hội kinh doanh bất động sản của nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, các vị khách quý và các nhà khoa học. Điều đó chứng tỏ sức hút từ chủ đề Hội thảo và cũng là minh chứng cho những nỗ lực và thành công trong công tác tổ chức của Hiệp hội bất động sản Việt Nam và Trường Đại học Luật Hà Nội.

Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước” đồng thời tiếp tục “huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật… khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước”. Những định hướng lớn này cho thấy, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời coi việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là một trong những mục tiêu ưu tiên để hóa giải, tháo gỡ những “điểm nghẽn” của quá trình phát triển, trong đó có thị trường bất động sản nói chung và thị trường bất động sản du lịch nói riêng.

Tại Hội thảo hôm nay, với nội dung phong phú, đa chiều nhưng cũng rất có trọng tâm, trọng điểm của các báo cáo khoa học và chủ đề thảo luận, tôi tin tưởng Hội thảo sẽ tập trung phân tích một cách toàn diện, sâu sắc, luận giải kỹ và rõ về chủ trương, đường lối của Đảng đối với việc phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường bất động sản, chỉ ra những điểm nghẽn trong thể chế và quy định về bất động sản du lịch hiện nay, đóng góp các quan điểm khoa học, các luận cứ thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản du lịch tại Việt Nam.

Tôi đề nghị, trên cơ sở các tham luận của hội thảo, những ý kiến trao đổi tại hội thảo, Ban tổ chức sẽ tổng hợp ý kiến, đề xuất các giải pháp tháo gỡ những bất cập của thị trường bất động sản du lịch từ đó báo cáo các cơ quan có thẩm quyền để có những biện pháp phù hợp nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của thị trường bất động sản du lịch, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Với hình thức tổ chức trực tiếp kết hợp với trực tuyến, tôi tin tưởng hội thảo sẽ là cơ hội tốt để các quý vị đại biểu tham dự tại Việt Nam cũng như ở nước ngoài có điều kiện thảo luận và lắng nghe.

.08:20 TS. Đoàn Trung Kiên, Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội phát biểu đề dẫn Hội thảo

Thay mặt tập thể lãnh đạo Trường Đại học Luật Hà Nội và Ban tổ chức Hội thảo, tôi xin gửi lời chào trân trọng và lời cảm ơn chân thành nhất về sự quan tâm, tạo điều kiện và trực tiếp tham dự của lãnh đạo Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, các vị đại biểu quốc hội, lãnh đạo một số ban, ngành ở trung ương và một số địa phương của Hà Nội; sự hiện diện của các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn, đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong và ngoài nước, nhà quản lý, các luật sư, chuyên gia về kinh tế, tài chính, bất động sản, các nghiên cứu sinh, các thầy cô giáo và các cơ quan thông tấn, báo chí v.v.

Điều này cho thấy được sức hút, sự lan tỏa và giá trị thiết thực của hội thảo. Bởi nó kết tinh tiếng nói, sự phản biện chính sách của các nhà khoa học, các chuyên gia pháp luật trong và ngoài nước về thực trạng chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch; kinh nghiệm quốc tế và những kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật. Đây là những thông tin rất bổ ích, có giá trị tham khảo không chỉ đối với công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội mà còn cho các cơ quan soạn thảo trong việc sửa đổi, bổ sung ba đạo Luật nói trên. Kính chúc các quý vị đại biểu sức khỏe, bình an và hạnh phúc!

Như các quý vị đại biểu đã biết, trong những năm qua, phân khúc thị trường bất động sản du lịch phát triển vô cùng sôi động và ngoạn mục với nhiều sản phẩm bất động sản cao cấp ra đời như: Condotel, shophouse, shoptel, resort, homestay, farmstay… ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng, giải trí ngày càng cao của du khách mà còn tạo thêm nhiều cơ hội kinh doanh hấp dẫn cho các nhà đầu tư thứ cấp và người dân, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, là động lực quan trọng cho sự tăng trưởng của thị trường bất động sản nói chung.

Tuy nhiên, chính sách, pháp luật về kinh doanh bất động sản du lịch chưa đầy đủ, thống nhất, đồng bộ đã và đang gây lúng túng cho công tác quản lý nhà nước về thị trường bất động sản ở các địa phương và là “điểm nghẽn” cho hoạt động đầu tư kinh doanh ở phân khúc bất động sản này. Để giúp các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh bất động sản “gượng dậy”, phát triển sau đại dịch Covid -19; để cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thị trường bất động sản thì việc bổ sung hoàn thiện chính sách, pháp luật về kinh doanh bất động sản du lịch là rất cần thiết. Hội thảo này là một trong những hoạt động thiết thực góp phần vào quá trình đó. Tôi hy vọng, tại hội thảo chúng ta sẽ có cơ hội trao đổi ý tưởng, quan điểm khoa học giữa giới nghiên cứu trong nước với nước ngoài; giữa các cán bộ, giảng dạy, nghiên cứu khoa học pháp lý; nghiên cứu kinh tế với các nhà quản lý, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản… để chia sẻ các luận cứ khoa học góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật về kinh doanh bất động sản du lịch trong thời gian tới.

Hội thảo đã nhận được tổng số 35 báo cáo tham luận, 33 của các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn ở Việt Nam và 02 từ quốc tế. Tôi nhận thấy các vấn đề pháp lý từ lý luận đến thực tiễn về thị trường bất động sản nói chung và bất động sản du lịch nói riêng đều được đề cập, phân tích, “mổ xẻ” ở nhiều góc nhìn khác nhau, trong đó chú trọng phân tích đến xu hướng phát triển và những “điểm nghẽn” thể chế của thị trường bất động sản du lịch Việt Nam, vai trò quản lý và điều tiết của Nhà nước, những định hướng về chính sách để phát triển bất động sản du lịch gắn với chiến lược quốc gia về phát triển du lịch tầm nhìn đến năm 2030… Đặc biệt, Hội thảo là cơ hội tuyệt vời để lắng nghe những kinh nghiệm quý báu của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, những bạn nơi có thị trường bất động sản du lịch phát triển và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ như Thái Lan, Indonesia, Singapore, Australia, Hoa Kỳ... Vì vậy, có nhiều điểm để Việt Nam có thể tham khảo nhằm từng bước hoàn thiện chính sách và pháp luật, từ đó khơi dậy sức bật của thị trường bất động sản du lịch đầy tiềm năng của chúng ta.

Hội thảo quốc tế này là hoạt động đầu tiên đánh dấu sự hợp tác giữa Trường Đại học Luật Hà Nội với Hiệp hội Bất động sản Việt Nam trong nghiên cứu khoa học, gắn kết giữa lý luận với thực tiễn giữa kiến thức khoa học và giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Tôi hy vọng các sự kiện tương tự sẽ được hai bên tổ chức hằng năm đây sẽ là sự kiện thường niên được hai bên tổ chức hàng năm. Trên cơ sở kinh nghiệm hợp tác với Hiệp hội bất động sản Việt Nam, nhà trường sẽ phát triển mô hình hợp tác với các hiệp hội ngành nghề, các doanh nghiệp, các cơ quan ở trung ương và địa phương khác trong việc nghiên cứu, đưa ra sáng kiến về lập pháp hoàn thiện thể chế pháp luật; tư vấn, phản biện thực thi chính sách, pháp luật trong tương lai.

Hơn nữa, việc tổ chức hội thảo phù hợp với Chiến lược phát triển Trường Đại học Luật Hà Nội trở thành cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu; trường trọng điểm về đào tạo pháp luật, trung tâm nghiên cứu và truyền bá tư tưởng pháp lý hàng đầu của Việt Nam, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế.

Theo chỉ đạo của đồng chí Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phan Chí Hiếu, sau khi kết thúc hội thảo, Trường Đại học Luật Hà Nội sẽ phối hợp với Hiệp hội Bất động sản Việt Nam chắt lọc,sẽ tổng hợp ý kiến báo cáo, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền trong việc sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bất động sản nói chung và bất động sản du lịch nói riêng góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản một cách có hiệu quả ở nước ta.

Do sự hạn chế về điều kiện công việc, thời gian tổ chức Hội thảo chỉ có thể diễn ra trong buổi sáng ngày hôm nay, do vậy, tôi mong muốn và đề nghị các quý vị đại biểu, các nhà khoa học tham dự Hội thảo phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận và thống nhất các vấn đề mà Hội thảo đặt ra. 

Tham dự hội thảo quốc tế này có sự hiện diện của lãnh đạo Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Hiệp hội Bất động sản Việt Nam; lãnh đạo các bộ, ban, ngành trung ương và một số địa phương của Hà Nội; sự hiện diện của các nhà khoa học trong và ngoài nước, nhà quản lý, các luật sự, đại diện doanh nghiệp, chuyên gia về kinh tế, tài chính, bất động sản, các nghiên cứu sinh, các thầy cô giáo và các cơ quan thông tấn, báo chí v.v. Điều này cho thấy được sức hút, sự lan tỏa và giá trị của hội thảo. Tôi hy vọng hội thảo sẽ thành công tốt đẹp và đạt được mục đích đề ra.

08:35 Trường Đại học Luật Hà Nội trao kỷ niệm chương cho các đại biểu và Tập đoàn CEO trao chứng nhận tài trợ Quỹ hỗ trợ người học của Trường Đại học Luật Hà Nội.08:40 Phiên thảo luận 1: Chính sách, pháp luật về thị trường bất động sản du lịch - kinh nghiệm quốc tế và những gợi mở cho Việt Nam. 

TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và Cạnh tranh và PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến, Phó Chủ tịch Hội đồng trường, Trưởng khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội chủ toạ Phiên thảo luận. 

TS. Võ Trí Thành mở đầu Phiên Thảo luận: 

Việt Nam có sự phát triển bất động sản du lịch bùng nổ trong vòng 7 - 8 năm trở lại đây nhưng còn rất nhiều khoảng trống, điểm nghẽn ở chính sách pháp lý. Vì vậy, phiên thảo luận này rất mong muốn nhận được những góp ý cụ thể của các diễn giả, chuyên gia để có thể phát triển thị trường này.
Chúng ta sẽ có 5 bài phát biểu của các diễn giả quốc tế gồm:
- Ông Mark Kitabayashi - Điều phối viên toàn cầu tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Hiệp hội Bất động sản và Môi giới Hoa Kỳ (NAR).

- TS. Sopon Pornchokchai - Chủ tịch Hội định giá BĐS Thái Lan, Chủ tịch Liên đoàn BĐS Thái Lan
- Ông Rusmin Lawin - Chủ tịch Hội Công nghệ BĐS Indonesia, Phó Chủ tịch Phụ trách Đối ngoại của Hiệp hội BĐS Indonesia
- Ông Jeffefy Foo  - Nguyên Chủ tịch Viện các Đại lý BĐS Singapore (IEA)
- Ông Christopher Khoo - Giám đốc điều hành Master Consult Services, Tổng cục Du lịch Singapore
Đầu tiên, xin mời phát biểu của ông Mr. Mark Kitabayashi - Điều phối viên toàn cầu tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Hiệp hội Bất động sản và Môi giới Hoa Kỳ (NAR).


08:42 Ông Mark Kitabayashi, Điều phối viên toàn cầu tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Hiệp hội Bất động sản và Môi giới Hoa Kỳ (NAR) trình bày tham luận

Tôi xin trình bày bài phát biểu về "Kinh nghiệm xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường bất động sản du lịch ở Mỹ và gợi mở cho Việt Nam". 

Nếu nhìn vào du lịch Hoa Kỳ chúng ta sẽ thấy một số thông tin về bất động sản du lịch điển hình, đó là các khách sạn trong thành phố và những khu nghỉ dưỡng gắn liền với sân golf, thứ nữa các bất động sản nghỉ dưỡng gắn với nhu cầu nghỉ dưỡng gia đình .

Thị trường bất động sản Hoa Kỳ hiện nay chứng kiến một thực tế là giá trị bất động sản cũng tăng rất nhanh với khoảng 20%/năm và dòng tiền mặt chảy vào thị trường này ngày càng nhiều. 

Tại Hoa Kỳ, có một số yếu tố ảnh hưởng đến thị trường bất động sản nói chung, và bất động sản du lịch nói riêng.

Thứ nhất là việc phân vùng, một số vùng đất đai được chia ra khu nào được xây dựng bất động sản nghỉ dưỡng, khu nào xây bất động sản cao cấp nói chung và khi nào thì xây bất động sản nhà ở. 

Thứ hai, về chính sách thuế, chúng tôi cũng chia thành các loại như thuế thu nhập và chúng tôi thu hút đầu tư bằng cách khuyến mại chính sách về thuế thu nhập như giảm thuế, miễn thuế... 

Thứ ba về chính sách điều hành các dự án bất động sản du lịch thì thường việc quản lý vận hành này do các doanh nghiệp quản lý vận hành triển khai.

Ở Hoa Kỳ chúng tôi gần như không có hạn chế về sở hữu đất đai. Một số quốc gia có thể hạn chế về diện tích đất mà một người có thể sở hữu, nhưng ở Hoa Kỳ không có những quy định này, chỉ có phần hạn chế với bất động sản nông nghiệp.

Tuy nhiên, người nước ngoài sở hữu bất động sản ở Hoa Kỳ cũng khó hơn người bản địa. Bởi hiện Hoa Kỳ đưa ra mức thuế 10 - 15% đối với người nước ngoài, đặc biệt là ở các bang khác nhau, mức thuế cũng khác nhau.

Dù vậy nhưng bất động sản Hoa Kỳ vẫn là một khoản đầu tư hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Và những nhà đầu tư này thường tập trung vào thị trường second home - ngôi nhà thứ hai. Đầu tư bất động sản cho thuê ngắn hạn cũng ngày trở nên phổ biến. Tuy nhiên, nhiều bang đang đưa ra các chính sách hạn chế sự phát triển này bởi cho thuê thì nhiều người ra vào sẽ không thể kiểm soát được nên đang đem đến nhiều hệ luỵ.

Thị trường bất động sản du lịch Hoa Kỳ hiện nay cũng có một xu hướng là đầu tư khách sạn cao cấp. Đây là những khách sạn lớn, cho thuê ngắn hạn. Chúng ta có dạng như chung cư cao cấp nhưng quản lý dưới dạng khách sạn. Ví dụ, những tầng thấp sẽ là khách sạn, ở trên cao sẽ là chung cư. Những nhà đầu tư có thể mua những căn hộ trên đó và cho Ban quản lý ở đó thuê lại và cho khách du lịch thuê. 

Một xu hướng nữa là, hiện nay các nhà đầu tư muốn đầu tư vào các bất động sản nhỏ và trung bình, là những sản phẩm bất động sản bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 nên việc đầu tư bị thua lỗ và chủ cũ bán lại.

Chúng tôi dự đoán, giai đoạn tới, khi dịch bệnh được kiểm soát, xu hướng đầu tư cho bất động sản du lịch sẽ phát triển mạnh mẽ hơn.

08:50 TS. Sopon Pornchokchai, Chủ tịch Hội đồng định giá BĐS Thái Lan, Chủ tịch Liên đoàn BĐS Thái Lan trình bày tham luận

Tôi xin trình bày tham luận về "Kinh nghiệm xây dựng chính sách, pháp lý cho thị trường bất động sản ở Thái Lan và một số gợi mở cho Việt Nam".

Tôi sẽ chia sẻ một số chính sách của Thái Lan về bất động sản du lịch với một số mô hình du lịch nổi tiếng của chúng tôi.

Chúng tôi có một số khu nghỉ dưỡng rất được ưa chuộng bởi khách châu Á, cũng có những khu du lịch rất thích hợp với nhu cầu của du khách châu Âu, chúng tôi cũng có những khu du lịch dạng condotel để làm nghỉ dưỡng và thu hút nhà đầu tư. Ở Thái Lan chúng tôi cũng có khu du lịch kết hợp với thể thao. Chúng tôi đã quy hoạch vùng rất thích hợp cho hoạt động du lịch thể thao với sự tham gia của một số quốc gia vùng sông Mê Kông.

Chúng tôi cũng có cổng thông tin về các dự án bất động sản du lịch. Như vây, ai muốn mua hay đầu tư có thể vào công thông tin này để tìm hiểu thông tin.

Việt Nam có những điểm tương đồng với Thái Lan, đó là du lịch bền vững hướng đến phát triển xanh. Những người có thu nhập cao rất muốn đầu tư vào các sản phẩm bất động sản xanh như vậy. Ở Thái Lan chúng tôi có tầng lớp tinh hoa, Việt Nam cũng có thể xây dựng nhóm nhà đầu tư, du lịch tinh hoa. Đây là nhóm nhà đầu tư rất tiềm năng với thị trường bất động sản du lịch và bất động sản cao cấp.

Yếu tố ảnh hưởng nhiều đến du lịch bất động sản Thái Lan hiện nay đó là việc tổ chức đón khách du lịch ASEAN vào Thái Lan.

Ở Thái Lan, chúng tôi cũng có rất nhiều các điều luật, chính sách chi phối hoạt động của thị trường bất động sản du lịch. 

Về chính sách phân vùng, Thái Lan cũng quy định không phải khu vực nào cũng được phép xây dựng.

Về mối quan ngoại liên quan đến vấn đề an ninh. Chúng ta có thể nhìn thấy rất nhiều bất động sản ở gần cung điện, khu quân đội. Như vậy, chúng tôi không có vấn đề gì trong câu chuyện này.

Ngoài ra, tại Thái Lan, nếu muốn mua đất gần các khu vực biên giới để làm bất động sản du lịch cũng không vấn đề gì.

Về quỹ đầu tư, với một dự án bất động sản có giá trị 1 triệu USD, có thể sử dụng đưa vào quỹ uỷ thác đầu tư bất động sản. Bộ Tài Chính, các nhà đầu tư có thể tham gia quỹ này. Tương tự với ngành chứng khoán, ngành bất động sản cũng có những cách huy động vốn khác nhau.

09:05 Ông Rusmin Lawin, Chủ tịch Hội Công nghệ BĐS Indonesia, Phó Chủ tịch Phụ trách Đối ngoại của Hiệp hội BĐS Indonesia trình bày tham luận

Bài tham luận của tôi là về "Kinh nghiệm xây dựng chính sách, pháp lý cho thị trường bất động sản du lịch ở Indonesia và một số đề xuất chính sách cho Việt Nam". 

Tôi sẽ chia sẻ với quý vị một số kinh nghiệm phát triển bất động sản của chúng tôi.

Mỗi vùng mỗi khu vực của Indonesia đều có những đặc điểm về địa hình, khí hậu khác nhau. Vì vậy chúng tôi đều có những chính sách khác nhau để khai thác triệt và phát triển ngành du lịch.

Đơn cử như Bali - một trong những điểm đến rất được quan tâm nên chúng tôi cũng đang cố để tạo nên 3 Bali mới. Cùng với đó, chúng tôi cũng thường xuyên tổ chức các sự kiện, hội thảo để thu hút du lịch.

Ngoài ra, Indonesia còn rất nhiều địa phương khác có sức hút phát triển du lịch. Chúng tôi cũng có những vùng đặc khu kinh tế, chiến lược quốc gia để phát triển du lịch. Việt Nam có thể tham khảo điều này để phát triển du lịch.

Ngoài ra chúng tôi còn có các hồ địa lý hay công viên núi lửa, công viên văn hóa sinh thái địa chất. Đây cũng là những địa điểm được chúng tôi khai thác để phát triển du lịch.

Bên cạnh những ưu tiên về tự nhiên, chúng tôi cũng có những chính sách hỗ trợ đặc biệt về thuế, thuê đất... để hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp bất động sản du lịch. Đặc biệt, hành lang pháp lý cũng phải thông thoáng, cởi mở.

Vì có thị trường du lịch phát triển mạnh mẽ như trên cùng những hành lang pháp lý thuận lợi nên thị trường bất động sản của Indonesia rất sôi động.

09:15 Ông Jeffefy Foo - Nguyên Chủ tịch Viện các Đại lý BĐS Singapore (IEA) trình bày tham luận

Chủ đề bài tham luận của tôi là “Kinh nghiệm xây dựng chính sách, pháp lý cho thị trường bất động sản du lịch ở Singapore và một số đề xuất chính sách cho Việt Nam”.

Singapore có thu nhập đầu người cao và là trung tâm kinh doanh và vận tải toàn cầu. Là nơi phát triển về kinh tế, du lịch... Sân bay Singapore đã đạt 450 giải thưởng và là sân bay tốt nhất toàn cầu. 

Chúng tôi có STB – Cơ quan Tiếp thị hình ảnh và Quảng bá điểm đến du lịch, cơ quan này có mạng lưới rộng và thúc đẩy sự phát triển du lịch, tăng cường tính cạnh tranh và thông qua đó phát triển du lịch tại Singapore.

Phát triển du lịch tại Singapore không chỉ là tăng lượt khách mà tăng nguồn lực du lịch và đây cũng là một thách thức của toàn cầu hoá.

Chúng tôi có sự tham gia của các ngành dịch vụ để quảng bá du lịch của chúng tôi. Sự tham gia của các hạng mục khác như sân golf, khu trung tâm mua sắm, vườn thú, karaoke, quán bar… cũng đóng góp vào việc thu hút khách du lịch.

Ngoài ra, các loại hình bất động sản du lịch khác nhau cũng phát triển để cung cấp nhiều lựa chọn lưu trú cho khách du lịch như khách sạn 4 sao, 5 sao, villa, nhà nghỉ…

Chúng tôi cũng có một số đơn vị Nhà nước tham gia lĩnh vực du lịch và bất động sản du lịch. Cơ quan quản lý đất đai, Cơ quan xây dựng, Cơ quan tiền tệ, Cơ quan quản lý các doanh nghiệp… cũng tham dự vào lĩnh vực bất động sản du lịch.

Thị trường bất động sản du lịch Singapore cũng có sự tham vấn giữa các bên khác nhau. Ví như khi khởi công một dự án thì cần có sự tham dự của nhiều bên. Đặc biệt, trong đó có các mã phân loại có thể tham gia vào hoạt động xây dựng và kinh doanh. Cụ thể, như tôi đã nói ở trên, STB – cơ quan trực thuộc Bộ Thương Mại của Singapore nên phải có trách nhiệm với sự phát triển bền vững và lâu dài của du lịch. Ngoài ra, có sự tham vấn, chi phối của Chính phủ vào sự phát triển của thị trường bất động sản du lịch.

UERA – Cơ quan tái phát triển của đô thị, sẽ cung cấp giấy phép, để có được giấy phép này các doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu về chiều cao, sự phân bổ diện tích đất, tỷ lệ xây dựng… Việc sở hữu đất sẽ tuỳ thuộc diện tích và vị trí của mảnh đất đó. Và đơn vị quản lý sẽ là UERA.

SERA – Cơ quan pháp quy trực thuộc hệ thống luật pháp của Singapore sẽ quản lý các tài sản đất công của quốc gia. 

Liên quan đến thuế, chúng tôi có các loại thuế là thuế bất động sản, thuế thu nhập. Chúng tôi có cơ quan Thuế nội địa quản lý chịu trách nhiệm về vấn đề này.

IARS quản lý thuế của chúng tôi cũng như dự thảo các quy định về thuế với các loại thuế khác nhau. Tất cả các hoạt động giao dịch về bất động sản sẽ phải đăng ký với cơ quan thuế.

SSIC – mã phân loại ngành của Singapore cũng phục vụ cho công tác đăng ký và quản lý tốt hơn cho các doanh nghiệp. SICC là mã chuẩn hơn, chi tiết hơn để phân loại doanh nghiệp sau đó áp các quy định thuế khác nhau. Với các hệ mã khác nhau sẽ phân biệt được các loại hình doanh nghiệp khác nhau. Điều đó tốt cho sự phát triển của các ngành như bất động sản, du lịch và nhà ở.

Các nhà phát triển địa ốc phải chuẩn bị kỹ lưỡng các thông tin và chấp hành các quy định của Chính phủ thì mới được triển khai dự án.

Singapore cũng rất cởi mở và cho phép người nước ngoài mua bất động sản nhưng họ phải chịu một số các quy định về thuế.

09:30 Ông Christopher Khoo - Giám đốc điều hành Master Consult Services, Tổng cục Du lịch Singapore trình bày tham luận

Từ những kinh nghiệm sẵn có cùng góc nhìn của cơ quan Nhà nước, tư vấn quốc tế, tôi xin chia sẻ tổng quan về du lịch Singapore và những gợi ý cho Việt Nam.

Đất nước chúng tôi là đất nước rất hạn chế về mặt đất đai - chỉ có hơn 728 km2, vì vậy, chuyện quy hoạch là tất yếu và thiết yếu. Do đó, chúng tôi có 2 kế hoạch cho sự phát triển gồm dài hạn trong vòng 50 năm và kế hoạch ngắn hạn trong vòng 10 năm.

Như tôi đã nói ở trên, do tài nguyên đất không nhiều nên việc lên kế hoạch rất khó. Chúng tôi coi trọng từng m2 để phân bổ như đất ở, đất công nghiệp, công viên, khu dự trữ quốc gia, giải trí, hồ chứa, sân bay... và đặt biệt là đất cho quy hoạch du lịch như thế nào.

Liên quan đến ngành du lịch, lĩnh vực này được nhiều bộ ngành và các cơ quan, tổ chức khác nhau quan tâm, mỗi quy hoạch đều được phân vùng rõ ràng. Tất nhiên, trong những trường hợp phát sinh vẫn đòi hỏi phải có ngoại lệ song nhìn chung đều được phân định rõ ngay từ đầu.

Về tổng quan du lịch Singapore, đất nước chúng tôi đã phát triển rất ngoạn mục ngành bất động sản du lịch cho đến cuối năm 2019 khi đại dịch Covid-19 ập đến. Như vậy, rõ ràng đà tăng hầu như liên tục, chỉ có một quãng ngắn có sự sụt giảm. Có được điều đó là bởi chúng tôi không chỉ quan tâm đến lượng du khách gia tăng mà còn cả những khoản chi. Du lịch không chỉ có du khách mà nó còn cần quan tâm đến vốn đầu tư nước ngoài, các nhóm ngành phụ trợ phát triển, làm cho nền kinh tế và đất nước phát triển.

Ở thời điểm tiền Covid-19, tỷ lệ lấp đầy du khách ở nước tôi đều cao tầm 80 - 90%. Điều này chứng tỏ, tốc độ lấp đầy đang rất tốt mặc dù đất tại Singapore ngày càng trở nên đắt đỏ.

Tóm lại, thành công của một điểm đến du lịch phải cần 2 yếu tố:

Thứ nhất là, không trộn lẫn, cần điểm nổi bật.

Thứ hai là, sự khác biệt với các đối thủ cạnh tranh.

Bối cảnh hậu Covid-19 sự cạnh tranh diễn ra rất gay gắt nên buộc các doanh nghiệp phải tạo ra sự đổi mới. 

Tôi nhận thấy, du lịch Việt Nam đã có sự phát triển theo hệ thống, cùng với đó kinh tế cũng đã ổn định. Có thể nói tương lai của du lịch Việt Nam rất tươi sáng nhưng cũng đầy thách thức trước tình hình dịch bệnh Covid-19.

10:15 Phiên thảo luận 2: Kiến nghị và giải pháp xây dựng chính sách, pháp luật cho thị trường bất động sản du lịch Việt Nam.

 Ông Nguyễn Mạnh Hà, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam và PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến, Phó Chủ tịch Hội đồng trường, Trưởng khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội chủ toạ Phiên thảo luận.

10:17 Ông Đoàn Văn Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam trình bày tham luận

Chủ đề tham luận: Bất động sản du lịch ở Việt Nam: Thực trạng phát triển và kiến nghị hoàn thiện chính sách pháp luật. 

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bất động sản du lịch

Bất động sản du lịch là tài sản cố định về vị trí địa lý và không di dời được, bao gồm: đất đai, nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất đai được sử dụng phục vụ các chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác.

Bất động sản du lịch có vai trò quan trọng với sự phát triển kinh tế xã hội, văn hoá…

Về thực trạng phân khúc bất động sản du lịch và hệ thống chính sách, pháp luật liên quan tới bất động sản du lịch.

Cùng với sự phát triển của du lịch, bên cạnh mô hình khách sạn truyền thống, tại Việt Nam đã xuất hiện thêm nhiều loại hình sản phẩm bất động sản khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách. Có thể kể tới một số loại hình sản phẩm bất động sản du lịch chính như sau:

Thứ nhất, mô hình Khách sạn

Thứ hai, mô hình Khu nghỉ dưỡng (Resort)

Thứ ba, mô hình Biệt thự du lịch (resort villa, shopvilla)

Thứ tư, mô hình Nhà phố du lịch (shoptel), nhà phố thương mại (shophouse)

Thứ năm, mô hình căn hộ du lịch (Condotel)

Thứ sáu, mô hình homestay

Thứ bảy, mô hình farmstay

Theo thống kê trên cơ sở các quy định hiện hành, trình tự thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất hiện được quy định trong khoảng 19 luật, bộ luật, 52 nghị định, 42 thông tư, 102 quy chuẩn và 936 tiêu chuẩn; tuỳ từng loại dự án mà phải thực hiện thủ tục gồm từ 30 đến 54 bước với 38 đến 159 con dấu và thời gian quy định hoàn tất thủ tục khoảng 1 năm đến 1,5 năm. Trên thực tế thời gian thủ tục kéo dài từ 2 năm đến 5 năm hoặc lâu hơn. Việc vận hành dự án đòi hỏi chủ đầu tư có 3 giấy chứng nhận, 2 quyết định và 3 giấy phép. Trong 3 giấy phép thì có 2 giấy phép là Giấy phép kinh doanh thuốc lá, Giấy phép kinh doanh rượu mà theo chúng tôi hoàn toàn có thể gộp thành 01 giấy phép và phân cấp mạnh mẽ cho địa phương để giảm các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian cấp phép cho doanh nghiệp.

Như vậy, quy trình đầu tư dự án bất động sản du lịch rất phức tạp, qua nhiều bước khác nhau và tổng thời gian cho toàn bộ quy trình thường không xác định được rõ ràng. Quy trình vận hành dự án bất động sản du lịch theo tiêu chuẩn quốc tế đòi hỏi khắt khe về chất lượng dịch vụ. Điều này đòi hỏi đội ngũ nhân sự có chất lượng cao, nguồn tài chính lớn.

Cùng với sự gia tăng số lượng sản phẩm bất động sản du lịch, giao dịch mua bán bất động sản du lịch nhất là giao dịch mua bán condotel rất sôi động trong thời gian vừa qua, đặc biệt là giai đoạn 2015 – 2017, với gần 40.000 sản phẩm được bán ra thị trường.

Về hình thức xác lập giao dịch và các thỏa thuận giữa chủ đầu tư và khách hàng mua BĐS du lịch, việc giao dịch BĐS du lịch được thực hiện thông qua hợp đồng  bằng văn bản. Có 2 mô hình phân chia lợi nhuận giữa khách hàng và chủ đầu tư:

Mô hình không cam kết lợi nhuận: Khách hàng mua condotel, resort villa giao cho chủ đầu tư quản lý khai thác cho thuê và chia sẻ lợi nhuận theo lợi nhuận kinh doanh thực tế của căn hộ. Mức chia sẻ trên thị trường hầu hết ở mức chủ đầu tư 85%, khách hàng 15% hoặc chủ sở hữu 80%, chủ đầu tư 20%.

Mô hình cam kết lợi nhuận: Chủ đầu tư cam kết một khoản lợi nhuận nhất  định cho khách hàng mua condotel, resort villa trong một khoảng thời gian. Sau thời gian cam kết, sẽ trở về thành mô hình không cam kết lợi nhuận, tức là sẽ chia sẻ trên kết quả kinh doanh thực tế từ hoạt động kinh doanh cho thuê căn hộ. Khoảng thời gian cam kết thường là 5 - 10 năm với mức lợi nhuận ở mức 8 - 12%/năm tùy từng dự án và chủ đầu tư.

Mô hình cam kết lợi nhuận là mô hình được đại đa số các chủ đầu tư lựa chọn bởi mô hình này đánh thẳng vào tâm lý “chắc ăn” của các nhà đầu tư. Thực tế thị trường thời gian vừa qua cho thấy, một trong những vấn đề “nóng” là việc chủ đầu tư vi phạm thỏa thuận về chi trả lợi nhuận từ hoạt động khai thác, kinh doanh BĐS du lịch cho khách hàng. Đây là một trong những lý do khiến niềm tin của nhà đầu tư vào các sản phẩm BĐS nghỉ dưỡng nói chung và condotel nói riêng bị suy giảm, ảnh hưởng tới số lượng giao dịch condotel thời gian gần đây.

Về thực trạng chính sách, pháp luật liên quan tới bất động sản du lịch:

Thứ nhất, chưa có chính sách thật sự phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch và phân khúc BĐS du lịch.

Thứ hai, pháp luật về đầu tư, kinh doanh BĐS du lịch còn nhiều khoảng trống

Một số hạn chế lớn trong pháp luật về đầu tư, kinh doanh BĐS có thể kể tới:

Một là, thủ tục đầu tư phức tạp, khiến doanh nghiệp mất nhiều thời gian, chi phí

để hoàn thiện thủ tục đầu tư, vận hành dự án.

Hai là, pháp luật chưa có quy định cụ thể về cơ chế quản lý, sử dụng đất vào mục đích hỗn hợp (vừa sử dụng làm đất ở, vừa sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ và văn phòng) cũng như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (“Giấy chứng nhận”) đối với loại hình BĐS này.

Ba là, chưa có quy định, chính sách nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào BĐS du lịch. Từ góc độ pháp luật đất đai, mặc dù người nước ngoài được phép mua nhà ở theo Luật Nhà ở nhưng Luật Đất đai năm 2013 không ghi nhận quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất của người nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở. Vì vậy, cá nhân nước ngoài không phải là người sử dụng đất và không thuộc trường hợp được nhà nước giao đất có thu tiền theo Điều 5, Điều 55 Luật Đất  đai năm 2013 cũng như không được ghi nhận quyền sử dụng đất theo Điều 186 của Luật Đất đai.

Bốn là, chưa có quy định pháp luật nhằm kiểm soát tình trạng không rõ ràng trong cam kết lợi nhuận, huy động vốn và điều chỉnh đối với một số loại hình giao dịch, cho thuê sở hữu kỳ nghỉ.

Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản du lịch phát triển ổn định, bền vững:

Thứ nhất, nghiên cứu, hoàn thiện chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch và phân khúc BĐS du lịch.

Ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 147/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 với mục tiêu đến năm 2025, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn, thuộc nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh du lịch hàng đầu thế giới.

Để thực hiện mục tiêu này, cần có các chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch, cụ thể là:

Một là, đánh giá và định vị lại chính sách thị trường du lịch nội địa trong 5 năm tới và chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2030, trong đó làm rõ vai trò và tầm quan trọng của thị trường khách du lịch trong nước đối với sự phát triển của Du lịch.

Hai là, có chính sách miễn visa cho khách du lịch. Điều này sẽ giúp du khách tiết kiệm được thời gian, chi phí xin visa qua đó nâng cao sức thu hút của du lịch Việt Nam.

Ba là, có chính sách phát triển nguồn nhân lực du lịch. Cần có các chính sách tổng thể nhằm phát triển nguồn nhân lực du lịch như ưu tiên hỗ trợ hoạt động đào tạo nghề du lịch, xây dựng tiêu chí cho các chức danh ngành nghề du lịch…

Bốn là, hoàn thiện chính sách phát triển hạ tầng du lịch trong đó chú trọng dành nguồn lực công tư thích hợp cho đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, nhất là tại các địa bàn trọng điểm về du lịch; nâng cao khả năng kết nối giao thông nhiều hình thức tới các khu, điểm du lịch; đầu tư khu lưu trú, dịch vụ du lịch.

Năm là, có chính sách ưu đãi phù hợp để phát triển BĐS du lịch. Cần tập trung vào các ưu đãi về lĩnh vực đầu tư, về tiền thuê đất, về thuế, ưu đãi về tín dụng, khuyến khích đầu tư những tổ hợp BĐS du lịch đa công năng quy mô lớn. Nghiên cứu áp dụng các chính sách ưu đãi tương tự như đối với 2 ngành kinh tế mũi nhọn khác là nông nghiệp và công nghệ thông tin, trong đó tập trung vào chính sách về tài trợ vốn, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay và bảo lãnh để vay vốn…

Về định hình khung pháp lý cho thị trường BĐS du lịch đặc biệt là hoàn thiện các quy định pháp luật về đất đai, pháp luật kinh doanh BĐS, pháp luật về thủ tục đầu tư. Theo đó, sửa đổi một số nhóm quy định:

Một là, sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 về nhóm đất phi nông nghiệp nhằm định danh chính xác, cụ thể đất xây dựng các BĐS du lịch. Theo đó, ngoài khách sạn truyền thống (hotel), cần xác định rõ đất xây dựng các sản phẩm BĐS du lịch mới gồm resort, resort villa, condotel, shoptel, shophouse, homestay, farmstay… là một loại đất phi nông nghiệp. Để xác định cụ thể đất xây dựng các BĐS này là loại đất gì cần căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu và hoạt động thường xuyên của chủ sử dụng trên đất đó. Cụ thể:

- Đất xây dựng resort, biệt thự du lịch, căn hộ condotel, farmstay là đất thương mại dịch vụ;

-Đất xây dựng shoptel, shophouse, homestay là đất ở hoặc đất thương mại dịch vụ tùy theo từng trường hợp.

Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định trong Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 theo hướng: (i) Định danh chính thức các loại BĐS du lịch; (ii) ác định rõ các hình thức  xác lập giao dịch; (iii) Bổ sung quy định về chuyển nhượng hợp đồng mua bán BĐS du lịch trong tương lai; (iv) Quy định cụ thể  về thế chấp BĐS  du lịch; (v) cho phép  cá nhân nước ngoài được mua BĐS du lịch nhằm tăng thêm tính thanh khoản và bổ sung thêm nguồn vốn đầu tư phát triển các dự án BĐS du lịch, tạo điều kiện thúc đẩy ngành du lịch phát triển bền vững. Cần nghiên cứu xây dựng chính sách Việt Nam Ngôi nhà thứ hai (Vietnam My Second Home - VNM2H), cấp visa định cư có thời  hạn bằng thời hạn sở hữu BĐS cho người nước ngoài mua BĐS tại Việt Nam.

Ba là, bổ sung các quy định về quản lý nhà nước trong Luật Kinh doanh BĐS năm 2014 về hoạt động kinh doanh BĐS nói chung và kinh doanh BĐS du lịch nói riêng, thể hiện ở các loại hình chủ đầu tư kinh doanh BĐS phát hành cổ phiếu, trái phiếu BĐS; vấn đề bảo hiểm kinh doanh BĐS; kiểm toán BĐS; thị trường kinh doanh mua bán nợ trong lĩnh vực BĐS; vấn đề hứa thưởng cho những khách hàng đặt cọc trước để mua căn hộ, nhà ở trong các dự án nhà ở thương mại đang triển khai xây dựng (thực chất là huy động tiền ứng trước của khách hàng); quy định về quản lý nhà nước đối với phân khúc thị trường BĐS du lịch…

Bốn là, sửa đổi các quy định pháp luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Du lịch và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm đảm bảo thủ tục đầu tư. Xây dựng và vận hành dự án BĐS du lịch đơn giản, rõ ràng, tránh chồng chéo, giảm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Cải cách hành chính, tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật là yêu cầu sớm thực hiện.

Năm là, bổ sung các quy định về điều chỉnh quan hệ giữa khách hàng mua BĐS du lịch với chủ đầu tư dự án kinh doanh BĐS du lịch trong cam kết lợi nhuận khi thuê lại BĐS du lịch của người mua; quy định điều chỉnh hoạt động cho thuê sở hữu kỳ nghỉ giữa các chủ sở hữu BĐS du lịch ở trong và ngoài nước trên tinh thần tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên. Đối với giao dịch liên quan tới sở hữu kỳ nghỉ, cần có quy định, hướng dẫn cụ thể về điều kiện, hình thức giao dịch, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.

10:40 TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, phát biểu

Đã có dịp tôi ngồi với 2 tỷ phú nước ngoài cách đây 11 năm và họ đã nói đại ý rằng, đường bờ biển đẹp là một tài nguyên rất quý giá của Việt Nam. Sau cuộc gặp gỡ đó, chúng tôi đã có những nghiên cứu trên cơ sở nhận định của họ. Từ năm 2018, chúng ta có 18 triệu lao động từ nông thôn ra thành thị. Bên cạnh đó, vốn của ngân hàng, tổng tín dụng riêng vào du lịch chiếm hơn 60%. Giá trị bình quân lao động không tăng nhưng du lịch lại tăng. Điều đó cho thấy ngành du lịch, bất động sản có nhiều tiềm năng và thế mạnh.

Nhưng để thị trường bất động sản du lịch phát triển mạnh mẽ hơn nữa, tương xứng với tiềm năng, chúng ta cần có pháp lý, tài chính vững mạnh để có thể phát triển ngành bền vững. 

Chúng ta đã nỗ lực hoàn thiện cơ sở pháp lý và phát triển bất động sản rất nhanh. Cơ sở pháp lý là các nhà quản lý tạo ra để có thể quản lý, tuy nhiên, mỗi Bộ lại có luật khác nhau dẫn đến một số mâu thuẫn.

Mong rằng, hậu Covid-19, chúng ta có thể cải thiện các vấn đề pháp lý như về các luật chi phối thị trường bất động sản du lịch, về chứng khoán, vốn… để mọi thứ trôi chảy. Nếu không chúng ta sẽ bỏ qua rất nhiều cơ hội để phát triển.

Chúng ta đang ở trong giai đoạn khủng hoảng bởi Covid-19, đây là khủng hoảng tai hoạ chứ không phải khủng hoảng do kinh tế. Bởi vậy nhiều quốc gia đã bỏ ra chi phí lớn để có thể khắc phục khủng hoảng này. Các doanh nghiệp biết rằng, đây không phải là khủng hoảng cấu trúc, do đó khi khắc phục xong tất cả sẽ bật trở lại “đường đua”. Người nào đi trước người đó sẽ thắng. Nhưng chúng ta vẫn đang ở giai đoạn sửa đổi Luật, vẫn đang chậm trễ về thủ tục tháo gỡ, nếu chần chừ, chúng ta sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội.

Phải chăng vì sợ rằng mở cửa thông thoáng Nhà nước sẽ không quản lý được?

Tôi cho rằng, phục hồi lại kinh tế, trong đó có phục hồi bất động sản du lịch là chiến lược quan trọng. Nên hoàn thiện cơ sở pháp lý cho loại hình bất động sản du lịch, tạo điều kiện cho loại hình này phát triển.

10:45 PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến, Phó Chủ tịch Hội đồng trường, Trưởng khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội trình bày tham luận

Chủ đề tham luận: Tổng quan về hệ thống chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch ở Việt Nam.

​​Trong một vài năm trở lại đây, kinh doanh bất động sản du lịch là phân khúc phát triển mạnh mẽ, sôi động trong thị trường bất động sản ở các địa phương có tiềm năng, thế mạnh về du lịch. Các giao dịch về kinh doanh bất động sản du lịch ngày càng gia tăng về số lượng cũng như phát sinh tranh chấp, mâu thuẫn. Thực trạng gia tăng các giao dịch về kinh doanh bất động sản du lịch khiến nhiều địa phương lúng túng trong quá trình quản lý nhà nước do hệ thống chính sách, pháp luật về phân khúc thị trường này còn chưa đầy đủ, thống nhất, đồng bộ.

Điều này đặt ra yêu cầu phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật tạo lập khung pháp lý cho thị trường bất động sản nói chung và phân khúc kinh doanh bất động sản nói riêng vận hành thông suốt, đồng bộ, nhịp nhàng. Muốn vậy cần phải có sự đánh giá, rà soát tổng thể về hệ thống chính sách, pháp luật về kinh doanh bất động sản du lịch để nhận diện rõ những “khoảng trống”, thiếu sót, bất cập đưa ra giải pháp có tính thuyết phục để khắc phục. 

Cần có định hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch:

Thứ nhất, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch cần dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng về tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nền kinh tế thị trường và phát triển thị trường bất động sản ở nước ta.

Thứ hai, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch cần dựa trên yêu cầu của thực tiễn quản lý hoạt động bất động sản du lịch.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch cần đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với những chế định khác của pháp luật kinh doanh bất động sản và các lĩnh vực pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch cần đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ năm, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch cần tham khảo pháp luật kinh doanh bất động sản của các nước trên thế giới.

Đồng thời, cần có giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch.

Thứ nhất, bổ sung quy định của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 bắt buộc người môi giới bất động sản phải hoàn thành chương trình đào tạo về môi giới bất động sản của đơn vị được cấp phép mới được dự thi sát hạch lấy chứng chỉ hành nghề, cũng như quy định bổ sung cập nhật kiến thức hàng năm để hành nghề môi giới bất động sản.

Thứ hai, để nâng cao tính hiệu quả của quản lý nhà nước về kinh doanh bất động sản du lịch cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của Luật Đất đai năm  2013, Luật Nhà ở năm 2015 và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách, pháp luật về bất động sản du lịch cần đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với những chế định khác của pháp luật kinh doanh bất động sản và các lĩnh vực pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, bổ sung các quy định về quản lý nhà nước trong Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 về hoạt động kinh doanh bất động sản nói chung và kinh doanh bất động sản du lịch nói riêng thể hiện ở các loại hình chủ đầu tư kinh doanh bất động sản phát hành cổ phiếu, trái phiếu bất động sản trên thị trường chứng khoán.

Thứ năm, bổ sung các quy định về quản lý nhà nước trong hoạt động kinh doanh bất động sản trong Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 đối với các loại hình kinh doanh bất động sản nói chung và kinh doanh bất động sản du lịch nói riêng sử dụng khoảng không gian trên không và dưới lòng đất như kinh doanh bãi đỗ xe ngầm; kinh doanh hệ thống đường sắt trên cao, đường bộ trên cao; kinh doanh hệ thống xe điện ngầm…

Thứ sáu, bổ sung các quy định về quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bất động sản nói chung và kinh doanh bất động sản du lịch nói riêng trên nền tảng giao diện điện tử, ứng dụng hệ thống tin học và áp dụng mô hình kinh tế chia sẻ vào lĩnh vực  cho thuê nhà, môi giới bất động sản, mua bán bất động sản qua mạng internet; sử dụng nền tảng số trong cung cấp gói dịch vụ chia sẻ kỳ nghỉ tại một chuỗi các khách sạn thuộc cùng một hệ thống ở các nước trên thế giới; dịch vụ đặt phòng khách sạn trước ….

Thứ bảy, bổ sung quy định về quản lý nhà nước trong Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 tích hợp chặt chẽ giữa hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản nói chung và kinh doanh bất động sản du lịch nói riêng với vấn đề bảo vệ môi trường; xây dựng các tiêu chí xác định các sản phẩm bất động sản du lịch xanh; xác lập cơ chế đồng bộ, thống nhất về chính sách ưu đãi, khuyến khích đối với chủ đầu tư kinh doanh BĐS trong việc tạo lập các sản phẩm bất động sản du lịch xanh hoặc lồng ghép mô hình kinh tế tuần hoàn trong hoạt động đầu tư kinh doanh BĐS du lịch…

Thứ tám, rà soát, sửa đổi các quy định của Luật Đầu tư năm 2020 theo hướng bổ sung quy định về cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh bất động sản du lịch; quy định về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản du lịch; vấn đề cấp giấy phép đăng ký đầu tư cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước trong đầu tư các dự án về bất động sản du lịch…

Thứ chín, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Du lịch năm 2014, Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, các đạo luật có liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành về kinh doanh bất động sản du lịch đảm bảo sự thống nhất, tương thích, đồng bộ góp phần tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư kinh doanh bất động sản du lịch thông suốt, cạnh tranh lành mạnh, công khai minh bạch và bình đẳng giữa các chủ thể tham gia phân khúc thị trường bất động sản du lịch.

10:55 Ông Bùi Tuấn Minh, Phó Tổng giám đốc Deloitte Việt Nam trình bày tham luận

Chủ đề: Một số kiến nghị chính sách, pháp lý về thuế nhằm thúc đẩy thị trường bất động sản du lịch Việt Nam phát triển.

Trong tình hình hiện nay, nhu cầu khôi phục và phát triển thị trường bất động sản nói chung và lĩnh vực bất động sản du lịch nói riêng do những khó khăn dịch Covid-19 đặt ra yêu cầu đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ từ phía Chính phủ về nhiều mặt, trong đó có hỗ trợ cả về chính sách thuế.

Theo nhận định của chúng tôi, các cơ chế thuế đặc thù đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản nói chung cần được xem xét nới lỏng dần theo xu hướng chuyển đổi chính sách coi kinh doanh, chuyển nhượng bất động sản cũng như những ngành nghề kinh doanh khác.

Cụ thể, các vấn đề cần được tháo gỡ:

Thứ nhất là, hoạt động chuyển nhượng bất động sản không được hưởng ưu đãi thuế.

Ưu đãi thuế là một trong các yếu tố khuyến khích đầu tư và thường được đặt trong tổng thể các chính sách hỗ trợ tài chính khác đối với doanh nghiệp. Các ưu đãi thuế có thể định hướng theo nhiều cách và nhiều kiểu kết hợp dựa trên một số các tiêu chí: theo quy mô đầu tư (lớn hoặc nhỏ); theo loại hình kinh doanh hoặc ngành (sản xuất, nghiên cứu và phát triển); theo yếu tố đầu vào (vốn hữu hình, vốn vô hình, lao động, năng lượng, nguyên vật liệu); theo khu vực địa lý (vùng khó khăn, khu vực đặc biệt) v.v. Ví dụ, ưu đãi thuế cho công nghệ và thiết bị hiện đại, sử dụng trong các ngành đặc biệt hoặc cho các khu vực đặc biệt.

Thứ hai là, cơ chế bù trừ một chiều.

Lãi từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản không được bù trừ với lỗ từ hoạt động sản xuất kinh doanh khác.

Mô hình hoạt động của nhiều doanh nghiệp đã có sự thay đổi căn bản, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp có xu hướng phát triển đa ngành và kinh doanh bất động sản chỉ là một trong số các ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, tỷ trọng doanh thu từ kinh doanh bất động sản không còn chiếm ưu thế. Trong một số trường hợp, tuy mảng kinh doanh bất động sản có lãi nhưng vẫn không đủ bù lỗ cho các mảng kinh doanh khác. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 kéo dài đã làm trầm trọng thêm các khó khăn của thị trường bất động sản, làm cho hầu hết các doanh nghiệp bất động sản, nhà đầu tư, khách hàng đều gặp khó khăn ở các mức độ khác nhau.

Quy định hiện tại không cho phép doanh nghiệp được bù trừ lãi từ hoạt động bất động sản với lỗ từ hoạt động sản xuất kinh doanh khác, vô hình trung gây thêm khó khăn chồng chất cho doanh nghiệp, đi ngược lại với chủ trương đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua giai đoạn dịch bệnh Covid-19 mà Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra.

Vì vậy, việc sửa đổi quy định này theo hướng cho phép doanh nghiệp có lãi từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản được bù trừ với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là hết sức cần thiết nhằm tháo gỡ vướng mắc, tạo động lực cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản vượt qua giai đoạn khó khăn hiện tại và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ ba là, khống chế mức chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế.

Chúng tôi cho rằng chính sách pháp luật về thuế nên được nghiên cứu, xem xét và sửa đổi theo hướng linh hoạt hơn theo hướng quy định mức khống chế mức chi phí lãi vay phù hợp với đặc thù của từng ngành nghề kinh doanh cụ thể, đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh bất động sản thường nhu cầu sử dụng nguồn vốn lớn thì mức khống chế nên cân nhắc nâng lên cao hơn. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bất động sản nói chung và doanh nghiệp bất động sản du lịch nói riêng có những bước phát triển đột phá và mạnh mẽ hơn.

Thứ tư là, chính sách thuế giá trị gia tăng đối với giao dịch chuyển nhượng dự án trong giai đoạn nền kinh tế đang tổn thương sau đại dịch

Chính sách pháp luật về thuế nên được nghiên cứu, xem xét và sửa đổi theo hướng linh hoạt hơn, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp để bắt kịp với bối cảnh tình hình thay đổi liên tục của nền kinh tế.

Thứ năm, những sự hỗ trợ của Chính phủ gần đây cần được xem xét để phù hợp hơn đối với lĩnh vực bất động sản.

Chúng tôi đề xuất Bộ Tài chính xem xét khi hướng dẫn thi hành Nghị định số 126/2020/NĐ-CP, có phân biệt trường hợp cố ý khai thấp doanh thu và lợi nhuận để chiếm dụng tiền thuế với trường hợp không cố ý khai thấp doanh thu và lợi nhuận nhưng có các khoản doanh thu, lợi nhuận đột xuất những tháng cuối năm.Theo đó, không xử phạt đối với trường hợp doanh nghiệp đã nộp báo cáo kế hoạch doanh thu và lợi nhuận quý 4, kèm theo danh mục các dự án hoặc hoạt động kinh doanh, mà  có phát sinh doanh thu và lợi nhuận ngoài kế hoạch đã kê khai đăng ký với cơ quan thuế.

11:05 Ông Nguyễn Thành Trung Phó Tổng Giám đốc, Lãnh đạo dịch vụ thuế và pháp lý, Công ty PwC trình bày tham luận

Chủ đề tham luận: Những khuyến nghị trong xây dựng chính sách phát triển bất động sản du lịch Việt Nam.

Tôi xin chia sẻ 3 vấn đề chính gồm: Phương tiện về thuế, vấn đề về môi trường và một số khuyến nghị mang tính chất ngắn hạn.

Thứ nhất về thuế, tôi sẽ đi vào vấn đề cấn trừ lãi lỗ của doanh nghiệp.

Hiện nay, luật có quyền ban hành quy định cấn trừ lãi lỗ một chiều cho doanh nghiệp. Song đi sâu vào bất động sản du lịch, có nhiều mô hình song song sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn ảnh hưởng của dịch bệnh nên dễ gây ra nhiều ảnh hưởng đến các doanh nghiệp phát triển trong lĩnh vực này.

Trong khi đó, kinh nghiệm quốc tế đều không có quy định về kê khai bất động sản (ngoại trừ Malaysia và Việt Nam). Vì vậy, chúng tôi để xuất nên sửa đổi quy định này thay bằng cấn trừ lãi lỗ hai chiều.

Vấn đề thứ hai là Môi trường - Xã hội và Quản trị trong phát triển bất động sản du lịch. Đây là ba tiêu chí thể hiện tầm nhìn của doanh nghiệp mà xã hội quan tâm. Vì vậy, rất cần sự chung tay của các doanh nghiệp bất động sản trong các vấn đề này.

Bởi bất động sản du lịch chưa thực sự đạt được những tiêu chí này và nếu có đạt được thì cũng chưa đồng đều. Trong khi đó, các nước trên thế giới đã và đang đáp ứng rất tốt 3 tiêu chí trên. Ở ngắn hạn những tiêu chí này sẽ tiếp tục được các nước quan tâm và tập trung thực hiện.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng Việt Nam cần quan tâm hơn nữa 3 tiêu chí Môi trường -  Xã hội và Quản trị trong phát triển bất động sản du lịch.

Cần công khai minh bạch và rõ ràng những yêu cầu cụ thể về các tiêu chí để các doanh nghiệp dễ thực hiện và Nhà nước cũng dễ quản lý. Đặc biệt cần quan tâm đến yếu tố môi trường. Cụ thể, các khách sạn cần chú ý đến vấn đề môi trường ở quá trình phát triển và vận hành. Bởi đây là hai quá trình đang gây nhiều tác động đến môi trường sinh thái xung quanh.

Có thể doanh nghiệp sẽ phát sinh những chi phí nhất định khi đáp ứng các tiêu chí này nhưng những điều này là cần thiết. Vì vậy Nhà nước cũng cần quan tâm đến điều này để có hỗ trợ cho các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có trách nhiệm hơn với môi trường. Đơn cử như nên có khoản tín dụng xanh. Đây sẽ là khoản đem đến nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp. Đặc biệt, đối với bất động sản vẫn còn cơ hội nhiều cơ hội để tận dụng ưu đãi này.

Vấn đề thứ 3 là những kế hoạch mang tính chất ngắn hạn do ảnh hưởng đại dịch.

Hiện nay Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và lao động như giảm trừ thu nhập thuế, thu nhập cá nhân… tuy nhiên có nhiều chính sách khả năng thực hiện được rất thấp.

Vì vậy, Nhà nước cần xem xét lại những hỗ trợ này và nên phân định rõ ràng những hỗ trợ dài hạn và ngắn hạn.

11:15 Ông Nguyễn Đỗ Dũng, Tổng Giám đốc enCity trình bày tham luận

Chủ đề: Chiến lược phát triển đô thị du lịch thích ứng với bối cảnh Covid-19.

5 xu hướng của ngành du lịch sau đại dịch

Thứ nhất, du lịch nội địa dần thay thế du lịch quốc tế. Với những hạn chế và quy định về việc di chuyển, các công ty lữ hành phải tập trung vào khách hàng nội địa hơn là khách hàng quốc tế. Các tuyên bố giá trị mới có thể đưa ra và các khách sạn có thể phải điều chỉnh lại, cải tạo cơ sở vật chất để thu hút nhiều khách hàng hơn tại thị trường trong nước.

Thứ hai, điểm đến an toàn trở thành một tiêu chí lựa chọn chính: Các du khách trong tương lai được dự đoán sẽ ưu tiên đến các nhu cầu về vệ sinh, an toàn và an ninh. Theo thống kê của Google Trends, “khử trùng” đã trở thành cụm từ tìm kiếm thịnh hành “đột phá” trên toàn cầu vào năm 2020, tăng hơn 5,000% - đặc biệt tại Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Nhật Bản và Hồng Kông.

Thứ ba, áp dụng công nghệ lữ hành trong hành trình du lịch: Các kênh trực tuyến đã trở thành một nền tảng quan trọng trong việc du lịch. Do du khách luôn cần phải được thông báo và cập nhật liên tục về các hướng dẫn, quy định mới nhất về việc di chuyển, khai báo y tế hoặc hướng dẫn cách ly... nên nhu cầu được kết nối để giảm thiểu sự lo lắng cũng như sự thiếu chắc chắn tăng cao.

Thứ tư, chú trọng vào trải nghiệm địa phương: khách du lịch đang đòi hỏi sự kết nối sâu sắc hơn với những địa điểm mà họ tới và với người dân địa phương mà họ gặp.

Thứ năm, tập trung hơn vào du lịch sinh thái: ngày càng có nhiều người mong muốn tiếp cận và tìm kiếm các lựa chọn du lịch bền vững ở cấp độ vi mô do chúng ta đã có nhận thức rõ ràng hơn về tác động của hệ thống toàn cầu hóa.

4 chiến lược phát triển đô thị du lịch trong bối cảnh “bình thường mới”

Thứ nhất, bảo tồn di sản vật thể và thiên nhiên. Một trong những sản phẩm du lịch phổ biến nhất chính là môi trường của một địa phương, bao gồm cả môi trường tự nhiên và môi trường đô thị. Thành phố Hội An của Việt Nam là một ví dụ thành công về việc bảo tồn môi trường thiên nhiên và di sản đô thị giúp thu hút du khách quốc tế và nội địa đến với địa phương.

Mỗi năm, Hội An thu hút tới 4 triệu du khách tới thăm quan các di sản văn hóa phong phú và khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Khu phố cổ là điểm đến nổi bật nhất với nét đặc trưng là những dãy cửa hàng được xây dựng với kết cấu khung gỗ, đặt dưới lớp mái ngói truyền thống, nằm xen kẽ với những ngôi đền và hội quán. Bao quanh khu phố cổ là tập hợp các làng nghề truyền thống. Giữa các ngôi làng, những vùng đất nông nghiệp với diện tích lớn vẫn còn, mở ra tầm nhìn tuyệt đẹp từ trung tâm thành phố đến các vùng lân cận.

Thứ hai, kiến tạo các điểm đến địa phương mới. Khi du khách nội địa trở thành nguồn thu chính của ngành du lịch, bài toán đặt ra cho ngành du lịch và các thành phố là làm sao có thể làm mới các điểm đến vốn đã quá thân thuộc với đối tượng khách hàng này.

Thứ ba là linh hoạt trong chính sách về sử dụng đất. Bất động sản du lịch là sản phẩm nhạy cảm hơn cả. Do đó, các thành phố coi trọng du lịch như là một ngành kinh tế mũi nhọn sẽ phải có chính sách để vừa đảm bảo nguồn cung đất đai khi phải cạnh tranh với các nhu cầu khác, vừa hỗ trợ tạo ra nhu cầu cho loại hình nhiều rủi ro này.

Singapore là một ví dụ điển hình về việc sử dụng công cụ quy hoạch sử dụng đất trong việc hỗ trợ ngành du lịch phát triển. Kéo dài suốt từ cuối thập niên 60 tới đầu thập niên 80, đất nước này đối mặt với việc thiếu hụt khách sạn và các công trình hạ tầng du lịch do quỹ đất thích hợp về cả quy mô và vị trí để xây dựng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế rất hạn hẹp.

Tuy nhiên, Cơ quan quy hoạch Singapore - URA đã đưa ra một danh mục phân vùng riêng cho khách sạn (tạm gọi là đất khách sạn) trong bản Quy hoạch tổng thể (Master Plan) năm 1985. URA bố trí quỹ đất của chính phủ đủ lớn cho việc xây dựng khách sạn, đặt tại những vị trí trọng điểm du lịch như dọc theo sông Singapore, phố mua sắm Orchard, đảo Sentosa, khu Trung tâm thể thao (Sport Hub) hay trong khu vực trung tâm thương mại của thành phố. Các quỹ đất này được chính phủ bán cho tư nhân thông qua đấu thầu để xây dựng khách sạn, nhằm đảm bảo nguồn cung cho nhu cầu thị trường du lịch mà không bị cạnh tranh bởi các nhu cầu bất động sản khác.

Mười năm sau khi giới thiệu sử dụng đất khách sạn, URA lại giới thiệu một loại hình sử dụng đất mới có tính linh hoạt cao cho bất động sản thương mại: Đất Trắng (White site), trong đó cho phép một loạt các chức năng sử dụng đất khác nhau cho nhà đầu tư lựa chọn.27 Đất Trắng thường được áp dụng ở những vị trí cực kỳ đắc địa có giá trị cao hoặc trong các khu chức năng đặc thù như khu công nghệ cao hay đảo du lịch Sentosa, nhằm giảm rủi ro và cho phép sự sáng tạo của thị trường. Đất Trắng được áp dụng trong ngành du lịch nhằm phát triển một mô hình mới: Điểm đến tích hợp (Integrated resorts). Hai điểm đến tích hợp nổi tiếng nhất ở Singapore chính là tổ hợp khách sạn - casino - hội nghị và trung tâm thương mại Marina Bay Sands ở trung tâm thành phố và tổ hợp trung tâm vui chơi giải trí và casino Resorts World Sentosa trên đảo Sentosa.

Thứ tư, nâng cao năng lực kết nối giao thông

Tất cả các điểm đến du lịch lớn trên toàn thế giới đều có cơ sở hạ tầng giao thông vững chắc, kết nối các nơi này với phần còn lại của thế giới. Chúng ta không nên xem xét yếu tố này một cách riêng lẻ nhưng chắc chắn đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất để duy trì phát triển cho ngành du lịch. Thành phố Barcelona ở Tây Ban Nha là một ví dụ điển hình. Kết nối giao thông là một trong những yếu tố quan trọng giúp lượng du khách tới thăm Barcelona gia tăng nhanh chóng, đặc biệt là ba cơ sở hạ tầng đã được cải thiện liên tục trong những thập kỷ qua.

11:30 Ths. Nguyễn Mạnh Khởi – Phó Cục trưởng Cục Quản lý nhà và thị trường Bất động sản, Bộ Xây dựng, trình bày tham luận

Chủ đề: Định hướng điều chỉnh chính sách, pháp luật cho thị trường bất động sản du lịch Việt Nam.

Có hai vấn đề cần quan tâm hiện nay là làm sao để phát triển du lịch Việt Nam mạnh, bền vững và chính sách pháp luật về bất động sản du lịch cần khơi thông như thế nào?

Chúng ta chưa thực sự đặt bất động sản du lịch song song với các mô hình bất động sản khác để phát triển. Vì vậy, hệ thống pháp luật giai đoạn 2015 của chúng ta chưa nêu rõ, nên cách hiểu, cách triển khai có sự khác nhau.

Vì vậy, đầu tiên chúng ta cần phải làm rõ chính sách phát triển bất động sản du lịch là những chính sách gì.

Tôi xin phép được đặt ra 5 chính sách cần quan tâm gồm: Chính sách về quy hoạch, chính sách pháp luật về đầu tư xây dựng bất động sản du lịch, chính sách kinh doanh bất động sản du lịch, chính sách quản lý bất động sản du lịch, chính sách sở hữu bất động sản.

Trên cơ sở 5 chính sách này chúng tôi đặt ra thêm 1 vấn đề nữa: Bất động sản du lịch là gì? Cần cụ thể việc xếp loại hình bất động sản du lịch vào loại hình nào hay tách biệt để từ đấy quản lý.

Phải hiểu rõ khái niệm này chúng ta mới có thể quản lý và phát triển. Đặc biệt là những khái niệm mới ra đời như condotel.

Hiện nay bất động sản du lịch chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống quy định khác nhau, từ hoạt động đầu tư, kinh doanh đến việc quản lý, sử dụng.

Tuy nhiên, quy định của pháp luật Đất đai hay pháp luật Kinh doanh bất động sản hiện hành thì không có các khái niệm riêng cho loại hình bất động sản du lịch, trong đó có Condotel, Resort villa, farmhouse… mà chỉ có khái niệm chung, đó là nhà, công trình xây dựng với mục đích thương mại, dịch vụ.

Chỉ có pháp luật về du lịch mới có khái niệm riêng, gọi là cơ sở lưu trú du lịch và phân định thành các loại hình như khách sạn, căn hộ du lịch, biệt thự du lịch… Đối chiếu chức năng của loại hình bất động sản mới như Condotel, Resort villa… với pháp luật về du lịch thì đây là một trong những loại hình cơ sở lưu trú du lịch và được quản lý sử dụng theo quy định của pháp luật về du lịch. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành không dùng các khái niệm tiếng Anh như đã nêu trên để điều chỉnh.

Vì vậy, dễ gây lúng túng trong quá trình thực hiện của cả chủ đầu tư, nhà đầu tư và chính quyền địa phương, phát sinh những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, mua bán loại hình bất động sản này, cũng có trường hợp địa phương xác định đây là loại hình nhà ở nhưng không phải là đơn vị ở.

Để xử lý những vấn đề đặt ra nêu trên, từ năm 2018, Bộ Xây dựng đã có nhiều văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình đầu tư xây dựng các dự án căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, các khó khăn, vướng mắc về đất đai, đầu tư xây dựng, kinh doanh, quản lý vận hành có liên quan đến các loại hình công trình này.

Theo đó, pháp luật hiện hành liên quan quy định về hoạt động đầu tư xây dựng, kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đối với các loại hình bất động sản mới đã có và được quy định tương đối đầy đủ, mặc dù không xác định tên gọi riêng như pháp luật du lịch nhưng đều xác định đây là công trình dịch vụ, thương mại được xây dựng trên đất thương mại, dịch vụ. Tuy nhiên, để bảo đảm điều chỉnh đầy đủ hơn, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương, các chủ đầu tư dễ dàng thực hiện thì các cơ quan liên quan cần tiếp tục hoàn thiện một số quy định có liên quan về quy chuẩn, tiêu chuẩn, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu và quản lý kinh doanh loại hình này.

Trên cơ sở báo cáo đề xuất của Bộ Xây dựng, ngày 23/4/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 11/CT-TTg về một số giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh, trong đó có một số nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh và quản lý, vận hành các công trình du lịch, nhất là căn hộ du lịch.

Sau khi các quy chuẩn, tiêu chuẩn nêu trên được ban hành thì hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về xây dựng căn hộ du lịch, biệt thự du lịch về cơ bản đã được hoàn thiện đầy đủ, đáp ứng yêu cầu về công tác quản lý hoạt động xây dựng các dự án, công trình hỗn hợp có chức năng lưu trú. Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Xây dựng cũng đã có nhiều văn bản chỉ đạo, đôn đốc các địa phương triển khai thực hiện việc quản lý đầu tư xây dựng các loại hình bất động sản nêu trên bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật với các yêu cầu cụ thể.

Liên quan đến việc quản lý, kinh doanh loại hình căn hộ du lịch và biệt thự du lịch: Ngày 28/10/2019, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 3720/QĐ-BVHTTDL ban hành Quy chế quản lý, kinh doanh loại hình căn hộ du lịch và biệt thự du lịch.

Liên quan đến quy định về chế độ sử dụng đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với một số loại hình bất động sản lưu trú: Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã xác định đây là loại đất thương mại, dịch vụ, sử dụng có thời hạn. Tuy nhiên, để hoàn thiện đầy đủ hơn thì Bộ này cũng đang nghiên cứu để báo cáo cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung quy định về chế độ sử dụng đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với một số loại hình bất động sản mới (căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, văn phòng kết hợp lưu trú) trong Dự án Luật Đất đai (sửa đổi) theo chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội.

Trước mắt, để tháo gỡ vướng mắc cho các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường tại các địa phương, ngày 14/02/2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản số 703/BTNMT-TCQLĐĐ hướng dẫn chế độ sử dụng đất và việc chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng không phải là nhà ở cho các Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương. Sau khi có văn bản hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các địa phương đã có cơ sở, thống nhất thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với bất động sản du lịch, lưu trú là Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng (không phải nhà ở) và quyền sử dụng đất có thời hạn.

4 nội dung cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong công tác quản lý đầu tư, xây dựng, kinh doanh và quản lý sử dụng bất động sản du lịch:

Một là, về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu bất động sản du lịch, nhất là các loại hình mới như căn hộ du lịch, biệt thự du lịch: Mặc dù Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản hướng dẫn số 703/BTNMT-TCQLĐĐ như trên nhưng đây vẫn chỉ là văn bản hành chính, hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường, chưa phải là văn bản quy phạm pháp luật, quy định cụ thể về chế độ sử dụng đất đối với công trình xây dựng đa năng kết hợp chức năng lưu trú làm cơ sở, hoàn thiện hệ thống pháp luật quản lý đối với các công trình này;

Hai là, về hoạt động kinh doanh mua bán, cho thuê, cho thuê mua bất động sản du lịch: Theo quy định hiện hành thì các chủ đầu tư dự án, các chủ sở hữu đều được quyền kinh doanh bán, cho thuê, cho thuê mua các loại bất động sản mới này theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản, Bộ Luật dân sự hiện hành và người mua, thuê mua sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu căn hộ theo quy định của Luật Đất đai hiện hành (theo hình thức đất sử dụng có thời hạn). Tuy nhiên, các loại hình mới này có những đặc thù riêng, như vẫn có sở hữu chung, sở hữu riêng, có các nội dung về quản lý, sử dụng như nhà ở chung cư nhưng pháp luật kinh doanh bất động sản vẫn chưa có quy định cụ thể, như: quy định về hình thức kinh doanh, loại hợp đồng áp dụng, vấn đề quản lý chỗ để xe, vấn đề bảo lãnh khi mua bán, vấn đề huy động vốn hoặc việc mua bán gắn với quyền kinh doanh sau mua bán….Trong thực tế, nhiều trường hợp chủ đầu tư vì mục đích huy động được nhiều vốn, bán được nhiều căn hộ nên đã đưa ra các điều khoản hấp dẫn trong hợp đồng về mức lợi nhuận kinh doanh cho người mua, sau đó không thực hiện được cam kết và dẫn đến tranh chấp.

Ba là, về quản lý, sử dụng vận hành loại hình bất động sản du lịch: Đối với một số loại bất động sản như khách sạn, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê lưu trú thì chủ yếu có một chủ sở hữu nên việc quản lý, sử dụng được thực hiện theo pháp luật dân sự, pháp luật về du lịch, pháp luật quản lý tài sản nhà nước…và thực tế không có vướng mắc gì xảy ra, nhưng đối với các loại hình bất động sản mới như biệt thự du lịch, căn hộ du lịch đều thuộc diện có thể có đa sở hữu, có các nội dung chung, riêng và dễ dẫn đến tranh chấp những quy định về quản lý kinh doanh do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành theo Quyết định số 3720/QĐ-BVHTTDL năm 2019 vẫn còn chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu về công tác quản lý, sử dụng. Nhất là việc quản lý vận hành, việc xếp hạng chất lượng kinh doanh như đối với khách sạn…

Bốn là, về việc thực thi pháp luật thì Trung ương cũng cần yêu cầu các địa phương thực hiện nghiêm các quy định về giao đất, cho thuê đất, quản lý đầu tư xây dựng, kinh doanh các loại hình bất động này theo đúng quy định của pháp luật hiện hành, cụ thể.

11:45 Phiên thảo luận mở

Ông Nguyễn Mạnh Hà, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, điều hành phiên thảo luận. 

TS. Lương Hoài Nam, Thành viên Hội đồng tư vấn du lịch Việt Nam chia sẻ:

Qua nghe các tham luận từ sáng, tôi nhận thấy lĩnh vực bất động sản du lịch đang gặp rất nhiều vấn đề. Tôi cũng chia sẻ rằng, lĩnh vực du lịch chúng tôi cũng đang đối mặt với cả “núi” vấn đề.

Chia sẻ từ các chuyên gia nước ngoài đã cho thấy, quốc gia họ có diện tích nhỏ nhưng thu hút được rất nhiều khách du lịch, trong khi Việt Nam có diện tích lớn nhưng thu hút chỉ được khoảng 18 triệu khách du lịch mỗi năm. 

Cách đây 2 năm, chúng tôi có tham gia vào việc góp ý sửa đổi chính sách đối với condotel. Tuy nhiên, Việt Nam không dùng từ tiếng Anh nên gọi nó là sản phẩm của dịch vụ lưu trú. Tháng 4/2019, chúng tôi có gửi văn bản lên Thủ tướng nhưng vấn đề về định danh cho sản phẩm này vẫn chưa được giải quyết. Trong khi đó, cuộc sống vẫn đang diễn ra, hàng tỷ USD vẫn được đổ về thị trường condotel nhưng hành lang pháp lý vẫn chưa rõ ràng.

Tôi nhận thấy, các tranh luận mất nhiều thời gian khiến chúng ta mất các cơ hội phát triển. Tôi cho rằng, sau hội thảo này, các vấn đề sẽ được tháo gỡ một cách tích cực và hiệu quả hơn.

Tôi luôn đặt ra câu hỏi, tại sao một năm người Việt Nam có thể chi ra hàng tỷ đến hàng chục tỷ đồng để mang ra nước ngoài mua bất động sản? Tại sao các quốc gia đều khuyến khích thu hút mua bất động sản của nước họ? Tại sao không có vướng mắc gì cả? Tại sao người nước ngoài lại mua bất động sản ở Việt Nam lại khó như vậy?

Tại sao họ vào Việt Nam xây biệt thự, du lịch, đem dòng khách vào Việt Nam mà chúng ta không khuyến khích? Tôi cho rằng, cần có sự cân bằng lại giữa đưa dòng tiền Việt Nam ra nước ngoài và hút dòng tiền vào bất động sản Việt Nam.

Một số quốc gia quy định sở hữu bất động sản lên tới 99 năm để thu hút đầu tư nhưng tại sao chúng ta cũng không tăng thời gian sở hữu để thu hút nhà đầu tư nước ngoài?

Tôi mong muốn, các doanh nghiệp đặt ra các vấn đề cho Nhà nước và đơn vị Nhà nước lắng nghe, tháo gỡ để hoàn thiện chính sách.

Việt Nam cần có tầm nhìn du lịch biển, tầm địa trung hải, trọng điểm của châu Á, hướng đến giới siêu giàu. Chúng ta không cạnh tranh với các quốc gia Thái Lan, Malaysia bởi điều này chưa xứng đáng với tài nguyên nước ta. Việt Nam có quá nhiều tài nguyên về du lịch biển, du lịch núi… nên cần có tầm nhìn du lịch xứng đáng với tiềm năng. Bên cạnh đó, tầm nhìn này cũng sẽ thông qua các doanh nghiệp bất động sản để phát triển các sản phẩm lưu trú xứng tầm.

TS. Vũ Tiến Lộc, ĐBQH, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam chia sẻ:

Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây có những kết quả bùng nổ và hiện nay phát triển nhất là lĩnh vực bất động sản, phát triển du lịch có tầm quan trọng trong phát triển kinh tế. 

Việt Nam có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh về du lịch rất lớn. Hiện nay, trên thế giới, so về tiềm năng phát triển du lịch, Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển lớn nhất.

Chúng ta đang có thuận lợi là Quốc hội đang bàn cơ chế đặc thù và trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ chọn ra 4 địa phương để thực hiện cơ chế đặc thù mới, đồng thời, cơ chế đặc thù phải tạo ra mô hình quản lý mới.

Lĩnh vực bất động sản nói chung và bất động sản du lịch nói riêng đang là nội dung quan trọng, là ngành có nhiều sự sáng tạo và tạo ra nhiều giá trị nhất.

Vì vậy để tối ưu những điểm mạnh và giá trị đó, chúng ta cần có những chính sách, pháp lý phù hợp để tạo đà cho sự phát triển của thị trường bất động sản du lịch.

Theo tôi, tiếng nói của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam là rất lớn, vì vậy Hiệp hội nên đứng ra tổ chức, kết nối với thế giới, đóng góp vào đề án phát triển bất động sản du lịch Việt Nam, đồng thời cần phải có sự có sự tham gia của Bộ Xây dựng.

Tôi cho rằng, Bộ Xây dựng nên đứng ra tổ chức đề án để phát triển bất động sản du lịch, Hiệp hội Bất động sản Việt Nam tập hợp những kiến nghị, đưa ra đề án phát triển dưới sự chủ trì của Bộ Xây dựng thì cơ quan Nhà nước sẵn sàng tiếp thu.

Ông Nguyễn Mạnh Hà tiếp lời:

Đúng là không có một đại diện đứng lên để nói tiếng nói cho doanh nghiệp, cho thị trường bất động sản du lịch thì rất khó thể thay đổi những khó khăn cho thị trường. Thực tế, thị trường bất động sản du lịch chủ yếu vẫn là doanh nghiệp bất động sản tự làm dịch vụ lưu trú để thu hút khách du lịch, làm các sản phẩm phụ trợ thêm cho các khu du lịch để lưu giữ chân khách lâu hơn.

Tiếp theo xin mời ông Trần Văn Tiến, đại diện Bộ Tài Nguyên và Môi trường chia sẻ.

Ông Trần Văn Tiến, Trưởng phòng đăng ký Đất đai, Cục Đăng ký đất đai, Bộ Tài Nguyên và Môi trường:

Với tâm thế tham dự Hội thảo để lắng nghe những vướng mắc, rào cản trong quá trình phát triển bất động sản du lịch, tôi cũng xin chia sẻ rằng, Bộ Tài Nguyên và Môi trường cũng xin tiếp thu và sẽ phối hợp với các đơn vị, Bộ ngành liên quan để chỉnh sửa cho phù hợp.

Với lĩnh vực bất động sản nói chung, bất động sản du lịch nói riêng, vấn đề được quan tâm nhiều nhất là vấn đề cấp giấy chứng nhận sở hữu. Bộ Tài Nguyên và Môi trường cũng đã có văn bản hướng dẫn cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm bất động sản du lịch. Văn bản khi ban hành cũng đã tháo gỡ rất nhiều vướng mắc cho thị trường bất động sản du lịch. Với những vướng mắc hôm nay, chúng tôi tiếp thu và sẽ có những điều chỉnh trong thời gian tới.

Bà Nguyễn Thanh Bình, Phó Vụ trưởng Vụ Khách sạn - Tổng cục Du lịch

Bất động sản du lịch của Việt Nam trong vài năm trở lại đây phát triển rất nhanh với nhiều loại hình mới. Về cơ bản, chúng ta có 7 loại hình bất động sản du lịch từ lâu nhưng thời gian gần đây lại nóng do vấn đề sở hữu.

Ví dụ như vấn đề mua bán khách sạn. Do nhiều nhà đầu tư quan tâm đến du lịch, nhiều người có thể mua chung một bất động sản. Như vậy từ 1 chủ đầu tư thì bây giờ đã có 100 chủ đầu tư sở hữu chung một mô hình bất động sản du lịch. Từ đó đặt ra vấn đề quyền sở hữu của chủ đầu tư trong vấn đề bất động sản du lịch.

Bản chất, khi sở hữu chung các mô hình bất động sản du lịch, lợi thế sẽ được chia sẻ, rủi ro sẽ được chia đều. Như vậy, rõ ràng điều này cũng đem đến những mặt lợi và mặt hại nhất định.

Hiện nay, ngành du lịch thu hút du khách quốc tế đang bắt đầu được khởi sắc trong tháng 11 với 5 điểm đến quốc tế: Phú quốc, Khánh Hoà, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ninh. Tất nhiên, Nhà nước đang tính toán đến việc mở đến đâu phải an toàn đến đấy.

Với du lịch nội địa cũng đã có những chính sách kích cầu ở những vùng xanh, vùng vàng và cả vùng cam.

Việt Nam đang được khu vực đánh giá cao về phát triển du lịch. Những năm vừa qua những giải thưởng lớn nhất của thế giới đều dành cho Việt Nam. Vì vậy, chúng ta thực sự cần quan tâm đến lĩnh vực này, nên có những ưu đãi cụ thể.

Hiện nay, các doanh nghiệp đầu tư vào bất động sản du lịch đang là tiền tấn, tiền tỷ nhưng thu lại chỉ tiền hào. Chỗ nào nhanh nhất cũng phải 10 - 20 năm mới thu hồi lại vốn nên lãi thu của du lịch đang rất thấp. Vì vậy, chúng ta cần có những chính sách giảm chi phí đầu vào, chính sách thuế... mới thu hút nhà đầu tư tham gia vào lĩnh vực này.

Ngoài ra, cần xác định về quyền sở hữu của bất động sản du lịch để có sự rõ ràng cho nhà đầu tư khi có quan tâm.

12:25 Ông Nguyễn Văn Khôi, Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, phát biểu bế mạc Hội thảo.

Sau 4 tiếng, Hội thảo của chúng ta hôm nay đã thành công tốt đẹp.

Hội thảo hôm nay đã nhận được những ý kiến tập trung đánh giá thực trạng, phương hướng phát triển, đề xuất những giải pháp, kiến nghị, đặc biệt là về chính sách pháp luật nhằm góp phần vào sự phát triển nhanh, bền vững của thị trường bất động sản du lịch.

Cụ thể, tại phiên thảo luận thứ nhất: Về Chính sách, pháp luật về thị trường bất động sản du lịch – kinh nghiệm quốc tế và những gợi mở cho Việt Nam: đã tập trung phân tích kinh nghiệm xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường và gợi mở cho Việt Nam như: Đại diện Hiệp hội Bất động sản Mỹ, Thái Lan, Indonesia, Singapore…

Phiên thảo luận mở đã hướng đến giải quyết các vấn đề trọng tâm như: (i) Vai trò và sự phát triển của thị trường bất động sản du lịch và ý nghĩa của hệ thống chính sách, pháp luật đối với sự phát triển của thị trường; (ii) Kinh nghiệm xây dựng chính sách, pháp luật của nước ngoài có thị trường bất động sản du lịch phát triển và có điều kiện, trình độ phát triển tương đồng chúng ta; (iii) Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề mới, phát sinh, các xu hướng mới thị trường bất động sản du lịch; (iv) Mức độ tác động, điều chỉnh thị trường bất động sản du lịch thông qua các công cụ pháp luật của quốc tế và gợi mở cho chúng ta.

Đến phiên thảo luận thứ hai: Kiến nghị và giải pháp xây dựng chính sách, pháp luật cho thị trường bất động sản du lịch Việt Nam; Hội thảo đã tập trung làm rõ các vấn đề như: (i) Những xu hướng phát triển và những bất cập pháp lý của thị trường bất động sản du lịch; (ii) Vai trò quản lý và điều tiết thị trường bất động sản du lịch của Nhà nước; sự tham gia, vận động và phát triển thị trường của các chủ thể; (iii) Những cơ hội và thách thức về chính sách, pháp luật đối với các chủ thể tham gia vào thị trường bất động sản du lịch và định hướng chính sách cần thay đổi, tháo gỡ để thị trường phát triển.

Những vấn đề quan trong được rút ra trong Hội thảo khoa học quốc tế Bất động sản du lịch chính là tạo ra “hồn cho đất” để làm nên những giá trị vật chất và tinh thần, thu hut khách du lịch. Từ đó đưa ra các kiến nghị cần thiết gồm:

Thứ nhất, khung pháp lý cho thị trường bất động sản du lịch cần thống nhất định danh cụ thể hình thức đất xây dựng bất động sản du lịch, quy mô và vai trò của thị trường này, nhất là những vấn đề liên quan đến: Chính sách ưu đãi đặc thù; pháp luật về đầu tư, kinh doanh; cơ chế quản lý, sử dụng đất, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho người mua; vấn đề thu hút, huy động đa dạng các nguồn vốn đầu tư v.v…

Thứ hai, khung pháp lý cho thị trường bất động sản du lịch cần được thiết kế và hoàn thiện dựa trên việc tham khảo kinh nghiệm quốc tế, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Thứ ba, cần khẩn trương tạo lập hành lang pháp lý chính thức cho thị trường bất động sản du lịch; cần hoàn thiện các quy định pháp luật về đất đai, pháp luật kinh doanh bất động sản và thủ tục đầu tư, sự thống nhất quản lý của nhà nước trong các Luật liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm giảm thời gian, giảm chi phí cho doanh nghiệp v.v…

Chúng tôi xin tiếp thu ý kiến của TS. Phan Chí Hiếu, Thứ trưởng thường trực Bộ Tư pháp; TS. Vũ Tiến Lộc, Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, cũng như của các chuyên gia, doanh nghiệp đã chia sẻ trong hội thảo hôm nay.

Ban tổ chức sẽ tổng hợp ý kiến, đề xuất các giải pháp tháo gỡ những bất cập của thị trường bất động sản du lịch, để báo cáo các cơ quan có thẩm quyền xem xét và có hành động khẩn trương, phù hợp nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển của thị trường bất động sản du lịch, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Thay mặt lãnh đạo Hiệp hội Bất động sản Việt Nam và Ban Tổ chức, xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, các Quý vị đại biểu trong nước và quốc tế, các cơ quan báo chí – truyền thông và nhà tài trợ là Tập đoàn CEO đã đồng hành và làm nên thành công của Hội thảo. Trân trọng cảm ơn và kính chúc Quý vị nhiều sức khỏe!

Báo Reatimes.vn